• Tử vi Đông A

    Định lá số tử vi luận Đông A

    Đông A luận cách cục là thể lấy nhân định hóa thiên. Tử vi man thư sâu dày đời sau chẳng còn nhiều được nghiệm căn cách cục luận, đa phần tử vi nắm được cái bề ngoài lại không thấu triệt bên trong. Cách cục trở nên loạn động, tử vi toán mệnh thành mê tín, trục lợi, người luận ưa nói chuyện thần bí, lập cúng bái giải hạn sao không chú trọng tới mệnh học. Người chịu tự nghiệm lý thực tế các cách cục không còn nhiều. Tử vi thực tế có thể tự bản thân chứng nghiệm nếu có tham cầu về huyền học dịch lý sâu xa tiền nhân lưu lại. Khi luận một lá số tử vi. Tuy các cách cục có sai biệt tổng luận. Tuy nhiên phần căn bản không thay đổi chung. Luận lá số tử vi không phải là luận tính chất, bản chất của một vật vô tri. Như việc một thỏi vàng tính chất, màu sắc, nặng nhẹ, hình dạng. Luận một lá số tử vi là nhân mệnh có tính biến động tương tục, thay đổi về tất cả các mặt của về tính cách và tư tưởng. Về nhân mệnh có tính chất khác thêm do chịu ảnh hưởng của xã hội, hoàn cảnh bên ngoài tác động thay đổi theo thời vận. Do đó tính dịch lý rất lớn phức tạp hơn so với chỉ luận mệnh. Lá số tử vi là một tờ giấy ghi ghép dự đoán. Cuộc đời là những may mắn hay thọ yểu khác nhau tùy thời vận. Như một lá số tốt đẹp có phần cát ở các mặt, tuy nhiên ắt có phần hung do tính trung hòa của âm dương ngũ hành. Cái hay gặp là do tính căn bản giữa bốn nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật với Trợ Tinh và Sát Tinh rõ nét về các mặt của nhân mệnh ứng hợp. Càng có sở hữu nhiều càng gặp lo âu, sợ hãi nhiều do tính chất của vòng Lộc Tồn cường vượng tích lũy tại Lâm Quan của vòng Trường Sinh.
    Trong xã hội khi xét ở tính cách chung của con người rõ định cách tử vi nhận xét nghiệm lý rõ hơn. Do tư tưởng một nhân mệnh là một lá số. Đại diện của nhiều nhóm người là các lá số trong toán mệnh. Tư tưởng của người phân biệt rõ ở tham cầu, hạnh phúc, sợ hãi, lo âu. Thu được lợi là hạnh phúc. Mất lợi là lo sợ. Phàm mệnh kẻ càng có tham muốn lớn mới có thể thành tựu. Tham muốn nặng chấp giữ là mệnh đại quý, mệnh thượng cách. Tham muốn là khởi tạo của giữ và tích lũy tức khởi của vòng Lộc Tồn. Tham muốn về quan điểm sống, lập trường là khởi nguồn vòng Thái Tuế. Tham muốn hóa thành lực cát hóa là khởi vòng Trường Sinh. Tham muốn không khởi được Tam Không. Tham muốn hóa cục Sát cách thành tựu hoạch phát. Tham muốn thường trực là cách cục tốt. Khi hành vận của vận nước tác động. Như việc xuất hiện một cuộc thi may mắn, vận may trúng tài sản rất lớn. Hình thành nên các mệnh cách ngẫu nhiên. Khi vận nước chiến tranh không ngoại trừ. Bố cục lá số tử vi của mệnh tạo tòng mệnh. Do quy luật ngẫu nhiên tác động trong vận nước bao hàm nhân mệnh. Nhân mệnh cách cục thu hẹp trong vận nước. May mắn cũng do thời vận quyết định các cách cục đứng đầu sai khác. Khi rõ bản chất của mệnh tạo, lá số tử vi hay toán mệnh thì xét trợ cách của mệnh tạo do hợp hóa của cách cục. Nhân mệnh như gặp cách cục Cự Kỵ Đà Khốc Hình kẻ thành tựu lớn hay kẻ bần tiện đều theo khuynh hướng âm ám, tức quyền ngầm, có tính sinh sát lớn. Quyền sinh ra từ uy tín, tài năng chuyên môn là dương quyền, cũng có thể sinh ra từ lo sợ, sợ hãi. Cự Môn nhập mệnh là khẩu ngôn. Trăm mệnh đều thành bại ứng với khẩu ngôn của nhân mệnh. Nếu gặp Cự Kỵ Đà Khốc Hình tới vận Không Kiếp cẩn trọng vong mạng, hình tù. Trong lá số tử vi cũng định cách rõ việc công bằng trong xã hội rất khó khăn, do khởi nguyên từ tham muốn, tích lũy lợi ích. Tức không thể đạt được công bằng khi vạn vật vẫn được định giá trị. Chỉ Tam Không khởi nguyên được công bằng. Tức tất cả bằng không. Vì vậy dung hòa các lợi ích nhìn bởi công trạng, công sức xứng đáng. Cũng do tính ngẫu nhiên tác động mà có kẻ nắm binh lệnh do thời vận, hoặc do thừa kế từ phụ mẫu ở thời phong kiến tập quyền lạm sát, tạo bất công trong xã hội khi vận nước hóa Sát khí loạn động. Khi hình thành giai đoạn vậy, tôn giáo khiến tính bất ổn trở nên ổn định hơn. Do hướng tới sự sợ hãi lớn trong nội tâm kẻ đứng đầu hay kẻ thấp là chết. Đạo tức tôn giáo là đường hướng, phương hướng. Dẫn động các tư tưởng không hướng tới cực đoan khi bất mãn trong xã hội. Do hướng tới lực lượng tâm linh, nhân mệnh đều quy phục, thờ tín nên trụ vững. Định cách lá số tử vi người theo tôn giáo luận sai khác. Đây là điểm quan trọng khi luận lá số. Vạn vật không tránh khỏi suy tuyệt. Thiên địa khai tạo trường tồn cũng phải suy diệt. Khi khởi sinh, xung đột bế tắc và cạnh tranh tạo nên thành tựu lớn từ nguyên thủy tới nay. Tuy nhiên trong các thực tức Thái đã hàm chứa chữ Hư thuộc tính hư ảo của vạn vật do tri giác nhận thấy. Kẻ này nhìn thấy khác, kẻ khác nhìn thấy khác sai biệt.
    Lộc Tồn và Phi Liêm lại ở thế đối cung. Thái Tuế và Thiên Hư cũng ở thế đối cung. Lá số thành tựu là lá số mệnh cách khả năng hành động, đa biến do tính chấp định tạo nên phát triển. Một số man thư luận cách cục xung đột bại cách là sai lầm. Với nhân mệnh địa vị khác nhau khi khởi sinh trong xã hội ứng với khí hình gốc thứ nhất, do khởi gốc từ gia đình, thừa hưởng tạo ra hoặc may mắn ngẫu nhiên, là các trường hợp sai biệt. Trường hợp xấu như việc cùng một gia đình có nhiều người bị cùng loại bệnh nan y, ung thư do di truyền lại sau. Việc di chứng của chất độc da cam rõ về việc nhân tạo gây họa vận nước dẫn tới ngẫu nhiên nhân mệnh gặp bệnh tật tới đời sau. Chữ không may hay may mắn có nhiều mức độ. Xấu nhất là tuyệt mạng, khổ cực. May mắn là được cầu ước thấy, kẻ khác ngưỡng mộ. Không may cho tất cả mọi người là khó có người thoát khỏi với lão bệnh của cuộc sống. May mắn cho tất cả mọi người là không có khổ ách kéo dài vĩnh viễn. Cũng vậy các bố cục hướng tới tham muốn hay thụ hưởng do tư tưởng mỗi mệnh cách có sai khác về thành tựu của cách cục. Định cách khí hình tức tham muốn, khả năng phẩm chất rất quan trọng để xét bố cục. Cách cục tốt nhất là tham muốn vô đáy. Tham muốn song hành với loạn động, do có tính chuyển động, thay đổi, hành động. Với Sát cách tác động có tính bất thường, bất ngờ lớn. Kẻ may mắn được thừa hưởng gia tài lớn với mệnh cách tầm thường so với phụ mẫu trước giai đoạn sau phá tán. Khi xét lá số tử vi là luận chung về khả năng phẩm chất và toàn cục. Tùy khí hình gốc ban đầu để ứng hợp, luận tổ hợp không thay đổi. Như việc. Lấy hạt giống chanh dù ban đầu tốt xấu năng suất kết quả cao thấp cũng không thể phát triển thành cây táo hay tạo quả ngọt. Chữ bất ngờ luôn thường trực thay đổi toàn xã hội. Tuy nhiên thường người nhìn tới cái thực có, hiện tại hơn bất ngờ thay đổi về sau.
    Suy bại có thể hoạch phá rất nhanh so với thời gian gây dựng. Phát triển tạo nên bất công, suy bại, tồn vong. Một triều đại lớn, quốc gia đứng đầu sau thời thịnh vượng là suy yếu và có thể diệt vong các giai đoạn lịch sử thực chứng đều gặp. Một nhân mệnh cũng không sai khác. Khi rõ tính động thì rõ Sát cách, mệnh thành tựu cách là mệnh tích lũy, tức mệnh cách tham muốn và vượt lên. Man thư luận cách cục thường dựa vào dấu hiệu của Khoa Quyền Lộc, Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt cần rõ gốc luận. Như việc bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương hội Khoa Quyền Lộc Xương Khúc bất kiến Sát thực tế nhiều mệnh tạo có thành tựu về danh tiếng, là cách cục hướng tư tưởng tới ổn định, hưởng thụ tuy nhiên không mang ý nghĩa thành tựu lớn đột phá. Thành tựu hoạch phát như ở vị trí đỉnh núi. Thành tựu phát triển như ở giữa núi. Đời người có thể chỉ tới giữa núi là hết tuổi thọ. Cũng có thể tới đỉnh núi. Lợi ích là hoạch phát thì thời gian có thể ngắn hơn so với phát triển. Mệnh cách nếu hội cung độ tốt đẹp ở đại vận từ 60 tới 70 thì khó có thể luận là mệnh thành tựu dù cách cục bản cung vận ngộ Khoa Quyền Lộc Kình Khốc rất tốt đẹp. Cung độ tam hợp khác với bản cung. Hội cách cục tức xét ở vị trí tam hợp ứng với biến đổi tính chất Chính Tinh tại cung độ đó. Mệnh cách Thái Âm trong bố cục Âm Dương Lương. Vị trí Thái Dương tam hợp gặp Kình Dương là cách Dương Kình chủ khai mở, dương lên. Mệnh cách là Thái Âm, Dương Kình hội về thuộc tính chất của Thái Dương tác động tới tính cách. Như cách cục Âm Dương Lương phối hợp luận tính cách là hoàn chỉnh. Với mệnh cách Thái Âm khi gặp hoàn cảnh Thái Dương bộc lộ tính chất. Như mệnh Tử Vi có Vũ Khúc trợ lực với mệnh cách chủ lý tưởng, phương hướng. Vũ Khúc tác động khi mệnh tạo xây dựng phương hướng, thực hiện gặp vấn đề giải quyết. Vũ Khúc tam hợp mệnh tức khi có hoàn cảnh tác động sẽ bộc lộ. Âm Dương Lương với Mệnh có Thái Âm, Dương Kình hội về khi gặp hoàn cảnh cần chủ động mệnh tạo sẽ công khai, khai sáng lớn. Nếu Thái Âm ngộ Kình Dương tức bản thân Thái Âm biến đổi tính chất theo Kình Dương. Âm Kình chủ âm thầm phản kháng, tam hợp luôn có Hao. Nếu Âm Hao đồng độ mang ý nghĩa khác. Khi xét toàn cục cần xét theo tổ hợp sao. Với cách Âm Dương Lương hội Thanh Phi Phục mang ý nghĩa giao hội tính chất hai nhóm sao. 
  • Người phú quý đất Nam Dương, hai mươi tám tướng, không lẽ người nào cũng được cung lục hợp. Quân bị chôn ở đất Tràng Bình, bốn chục vạn người không hẳn người nào cũng bị hạn tam hình”.

    Hai lá số đều bị Lục Sát Tinh xâm phạm nhưng một kẻ thì dụng được Sát Tinh hóa Sát vi Quyền mà có được thiên hạ, kẻ kia tử nạn nơi chiến trường. Bí mật của họa phúc nằm không phải ở số mệnh mà do chính bản thân ta vô tình chọn do hoàn cảnh ngoài thực.

  • Thông tin tài khoản

    Đăng ký thành viên

    Hỗ trợ trực tuyến

    Hỗ trợ trực tuyến
  •              Hộp Thư Đến :       luantuvidonga@gmail.com

  • Thống kê truy cập

    Hôm nay 331

    Hôm qua 488

    Tất cả