• Tử vi Đông A

    Luận lá số mệnh Cự Môn cư Thìn

     

    Mệnh cách ngũ hành Thổ. Bản cung mệnh Cự Môn độc tọa cư Thìn trong bố cục Cự Nhật với Thái Dương cư tại Tí cung. Cự Môn ngộ Ấn Bệnh Phượng giao hội Tồn Kiếp Hình Tang và Dương Hư Khốc. Đây là bố cục của Cự Nhật giao hội Tồn Ấn Kiếp và Tang Hư Mã có Phượng Khốc và Hình Diêu. Cách cục này mang khuyết điểm lớn cho Cự Nhật cách. Cự Môn nhập cách mang ý nghĩa chủ bất mãn, phản đối trong nội tâm, nằm trong cách cục Cự Nhật khi tốt là được đứng lên công khai quan điểm của bản thân, Cự Môn cũng có khả năng lãnh đạo và chuyên môn nên có thể gánh vác. Tuy nhiên ở đây Thái Dương nhập Tí cung may có Lộc tuy nhiên sức cát hóa không lớn, chủ tính chất hướng lên, dương lên để phát triển không mạnh, lại giao hội Tang Hư Mã nên mệnh tạo khi nhỏ khuôn mặt có nên buồn, khi trưởng thành hóa thành lãnh đạm. Với bố cục Cự Nhật đặc biệt Cự Môn giao hội Tồn Ấn tức hình thành cách cục Cự Tồn có tính chất bất mãn trong nội tâm, cũng thể hiện tính xung đột trong gia đình. Trợ tinh không gặp, lại không có Sát cách nòng cốt bản cung chỉ có Cự Ấn Phượng khả năng thành tựu khó đạt nếu không nhập vận tốt. Cự Môn ngộ Lưỡng Lộc có Dương Khốc mang tính táo bạo, do bất mãn mà có thể cương quyết với sự nghiệp mà thành tựu. Cách cục Kiếp Tồn Tang Mã có tính chất mạnh, chủ để lại dấu ấn lớn trong cuộc đời về thất bại, lại do đồng độ nên chắc chắn sẽ gặp thăng trầm lớn trong sự nghiệp. Cách cục này do Sát cách bất hợp, tuy vậy vẫn còn được cách Binh Hình Tướng Ấn ngộ Mã Khốc Khách là cách cục tốt. Trong bế tắc, tai kiếp của Kiếp Hình Tang lại gặp được đường tiến lên, không lâm vào thế tuyệt đường nhưng áp lực cũng chẳng nhỏ. Do đó mệnh cách hướng tới Tài Quan đều có thể thành tựu.

     

    Hiềm nỗi bố cục này Cự nhập La Võng, bản cung không hay chỉ được tam hợp trong tổ hợp cát hóa. Cự Môn đồng độ với Điếu Khách trong nhóm Tang Hư Khách có Phượng Khốc không mấy hay, nếu đồng độ với Tang Môn hay Thiên Khốc thì cách cục định cách bởi bố cục Cự Tang hay Cự Khốc thành tựu lớn hơn. Cự Nhật cách với Thái Dương tối thì cuộc đời luôn rõ việc bản mệnh là Cự thường không gặp điều tươi sáng, đa phần do nỗ lực của Song Lộc ngộ Mã Khốc Hình, nhờ có kỷ luật với bản thân, luôn hướng tới phía trước ứng với Dương hóa Lộc thì tốt. Ở đây gặp Cô Quả thì công sức bỏ ra sẽ được kết quả nhanh, bộ Cô Quả và Đào Hồng Hỉ an theo Địa Chi có tính chất khá đặc biệt. Một bên là tình duyên khởi, một bên là nhân quả khởi. Cách cục Cự Nhật lấy thâm trầm làm trọng, bố cục Hình Kiếp Tang Khốc không dễ cát hóa, Cự Bệnh khi tác họa e gặp bệnh nan y. Bố cục này khiến Cự chế hóa được Hình Kiếp Tang Tồn bởi tính thâm trầm, lãnh đạm mà khiến Cự hóa Quyền điều hòa. Cự Nhật với Tồn Kiếp Ấn cũng mang ý nghĩa người đàn ông gặp nạn, ứng với cách cục này tại Mã Hình Kiếp Tang nên việc đi lại rất cẩn trọng, cả về vấn đề bệnh tật. Khi xét bố cục tai họa định cách bởi cung an THÂN. Ở đây Thiên Đồng cư Tuất ngộ Hỏa Kỵ Tuần với Lưỡng Long. Giao hội Khoa Hổ Triệt trong bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương có Hỏa Linh Kỵ Khoa Thanh. Cách cục này chủ bất hòa trong chữ hạnh phúc, tức bản thân khó được yên ổn hưởng phúc mà thường gặp may kịp thời khi có họa tới. Đồng Hỏa Kỵ Tuần là cách cục biến động mạnh, phối hợp Mệnh cách chủ động nên lá số bất ổn định, chuyển động mạnh, tức lá số này chứa Sát cách bộc phát.

     

    Tai họa thường tới bất ngờ, cơ hội thành tựu cũng vậy. Cuộc đời khó yên ổn hưởng thụ nên cần dụng bố cục này, lấy động làm gốc để phát triển. Cự Môn bản tính thường lo âu, dễ trong trạng thái kích động. Ở đây cung an Thân động cũng khá tốt, vì cách cục Đồng Hỏa Kỵ có Thanh Khoa nên mang ý nghĩa cát hóa. Do đó Thiên Đồng mang điểm kỳ lạ, tức dễ gặp việc khác thường do Kỵ được Khoa Thanh cát hóa. Cũng tức bản thân dễ có khả năng tốt, khác thường để thành công như khả năng linh tính, hay sự may mắn. Nhìn chung ở đây với cách Mệnh Thân xung chiếu nhập La Võng, hai bố cục đều không mấy hay, có năng lực nhưng thời vận cần dụng tới các đại vận đi qua, bằng không khó thành tựu lớn, tai họa cũng không gặp lớn do trợ cách không hình thành bố cục cung trọng điểm. Khi xét về tai họa hay tai kiếp trong đời định cách bởi bố cục Kiếp Hình Mã Tang bởi toàn cục bố cục này chứa cách cục Sát mạnh, có chế hóa nhưng chỉ được một phần. Với Tồn Kiếp Tàn thì tai kiếp không chỉ đến một lần, với cung an Thân có thể cát hóa nhưng khi gặp vận xấu gần đề phòng. Mệnh này có duyên với tâm linh và huyền học, tôn giáo. Một số cung an Thân cách Đồng và Lương đắc cách tức may mắn được cơ duyên với một số môn này. Lá số này cách cục Đồng Thanh Hỏa Kỵ với Mệnh có Cự xung Thân mang ý nghĩa như vậy. Mệnh cách Cự Nhật có Tồn Tướng Ấn không nên ứng hợp với tình duyên, tình cảm vì đây là bố cục mang họa. Với cách cục Tướng ngộ Kiếp Hình ắt việc tình cảm gây ra bất lợi với mệnh tạo, nên dụng Cự cho sự nghiệp hay tài cách. Cự Nhật dễ chia ly, lại có Cô Quả tại đây thì khuyết điểm của bố cục này là do tình cảm gây ra.

     

    Cự Nhật cách nhập nơi không mấy tốt, lá số sẽ khó thành tựu theo con đường thẳng, lại kiến Sát Kỵ khó cát hóa nên càng khó khăn. Tuy nhiên trong bố cục này hàm chứa lực Sát của Cự Tồn Kiếp với khả năng thích nghi của Mã Khốc Khách nên cuộc đời cũng không gặp bất trắc lớn, việc còn lại là hành vận tác động. Do vậy mệnh cách nên nghiên cứu về một môn huyền học hợp với khế vận, cũng hợp với mệnh cách, hướng tập trung ở Văn Cách trợ lực cho Tài Quan. Nếu theo Quan Cách với Cự Môn có thể thành tựu nhưng có phần khó khăn, do thiếu bố cục tạo lập uy tín, Cự không hóa Quyền lại ngộ Tồn Kiếp ắt sẽ xung đột trong tổ chức, bản thân cũng sẽ gây ra xung đột này. Nếu Cự Môn theo Tài Cách lấy Văn Cách trợ lực hợp cách. Với Quan Cách mệnh Cự Nhật khó dụng tình cảm để điều hành các mối quan hệ và bố cục, do Cự nhập Cô Quả Tồn Kiếp. Do đó lấy Tài Cách trợ lực bởi Văn Cách tức nghiên cứu chuyên sâu một môn huyền học thì hóa Ám của Cự thành Quyền. Mệnh cách Cự Môn cuộc đời gắn với chữ khẩu. Cự Môn đắc cách có khả năng chuyên môn và cách nhìn sâu sắc vì bất mãn muốn tìm ra kết quả tạo thành, do đó Cự nếu đứng đầu đa phần do khả năng hiểu biết một lĩnh vực, cũng do sự thâm trầm của tâm tính, trong trường hợp cư Tuất nhiều mưu sâu. A Man xuất thế do hữu Cự Kỵ Khốc Hình cư Thìn Tuất. Ở đây xuất hiện đủ bố cục Cự Khốc Hình có Kỵ từ Thiên Đồng xung là thứ cách, tuy không đắc cách như bố cục trên nhưng cần rõ khi đắc cách của bố cục này tâm tính như vậy. A Man tức Tào Tháo. Ở đây có Kiếp Tồn Cô Quả nên tránh việc tàn bạo như Tào Tháo, nếu không có bố cục Tồn Kiếp thì bố cục tương tự như vậy. Cách cục Cự có Đồng xung tại Thìn Tuất là cách cục nghịch của Cự Đồng cư Sửu Mùi.

     

    Cách cục này có khuynh hướng tốt hơn, đặc biệt phải chú ý chế hóa Kiếp Hình Tang tác họa thì có thể thành tựu sự nghiệp lớn, nếu không cũng thành tựu được bí mật về một số môn của huyền học. Thực chất người bên ngoài nhìn xã hội bởi tài và danh nhưng trong giới huyền học thì thực khác, do luận bố cục trợ cách cho Cự Môn người viết mới đưa ra các phần này. Có nhiều kẻ uyên thâm dịch lý sống đạm bạc, cũng có kẻ nắm được y thuật và khí công có khả năng chữa các bệnh nan y tức với mệnh số tuyệt khí điều dụng ngũ hành mà chữa được. Cự nhập Thìn cách với cung an Thân là Đồng Hỏa Kỵ Thanh sớm muộn sẽ có duyên với thế giới khác với xã hội bên ngoài tranh giành bởi Tài Danh. Với Văn Cách trợ cách chủ tìm hiểu chuyên sâu về mặt này, lâu dần hóa Cự khí thành Quyền, tức bản thân có khả năng về dịch lý hay huyền học. Thái Dương nhập Tí hóa thành Ám, bố cục này chủ âm vượng lại có Khốc Hình là ứng cách. Thực tế mệnh tạo nếu cuộc đời chỉ hướng tới sự nghiệp, không rõ điểm mạnh của mệnh cách này thì suốt đời bất đắc chí, may nhập vận thăng rồi lại trầm bất định. Trong bố cục này, cung an Thân đặc biệt, không phải là bố cục tốt nhưng có điểm khác biệt với mệnh thường. Người viết luận tử vi qua rất nhiều lá số, cách cục như vậy cũng gặp không nhiều. Với tướng số thì cách cục khuynh hướng bất dụng Sát cách, Cự không hóa được thành Quyền thì họa tới sẽ không nhỏ. Cự cư Thìn đắc tướng mạo có nét Sát, tức tướng mạo có khí lực, uy nghi, nếu Cự phá bất dụng Sát thì khẩu ngôn ưa việc nói quá sự thực, trường hợp xấu hơn thì ưa khoác lác, cần rõ để định hướng chế hóa của Cự. Thầy đang luận cho nữ mệnh Cự Nhật với Thái Dương cư Tí và Cự Môn cư Thìn, cũng đắc vòng Tồn Tướng Ấn tuy nhiên nữ mệnh bản cung nhập Mộ cung có Cự Khúc Quyền Tướng thuộc Văn Cách, Quyền hóa tình cảm khiến nữ mệnh Cự có tướng mạo môi thâm, vẻ mặt có chứa Sát cách, khi Cự nhập Thìn cách cục khá tốt có tướng mạo như vậy.

  • Người phú quý đất Nam Dương, hai mươi tám tướng, không lẽ người nào cũng được cung lục hợp. Quân bị chôn ở đất Tràng Bình, bốn chục vạn người không hẳn người nào cũng bị hạn tam hình”.

    Hai lá số đều bị Lục Sát Tinh xâm phạm nhưng một kẻ thì dụng được Sát Tinh hóa Sát vi Quyền mà có được thiên hạ, kẻ kia tử nạn nơi chiến trường. Bí mật của họa phúc nằm không phải ở số mệnh mà do chính bản thân ta vô tình chọn do hoàn cảnh ngoài thực.

  • Thông tin tài khoản

    Đăng ký thành viên

    Hỗ trợ trực tuyến

    Hỗ trợ trực tuyến
  •              Hộp Thư Đến :       luantuvidonga@gmail.com

  • Thống kê truy cập

    Hôm nay 1

    Hôm qua 317

    Tất cả