• Tử vi Đông A

    Nam mệnh VCD đối cung Cự Nhật lập Dần cung


    Nam mệnh ngũ hành Kim. Mệnh lập Thân địa, khi Kim cường vượng, cách cục thuộc cung độ vô chính diệu có nội Đồng Âm và Cơ Lương hội chiếu, ngoại kiến Cự Nhật thuộc cách vô chính diệu có Cự Nhật xung chiếu là cách cục tài năng. Cự Môn chủ to lớn, nổi trội. Thái Dương chủ phát dương. Cách cục Cự Nhật tại vị trí xung chiếu về cung độ VCD tại mệnh có điểm hay khi cách nội Âm ngoại Dương hợp chiếu tại vị trí đắc địa của Âm Dương khiến nhân mệnh dễ được ưu đãi từ cơ hội do hoàn cảnh tạo ra. Nội cách Cơ Nguyệt Đồng Lương bản tính hiền hòa, tuy nhiên do bản cung mệnh gặp Thái Tuế trong cách Tuế Đại Hỏa Linh có tính động cao, chủ có phẩm chất, bản lĩnh tốt khi Thái Tuế thành cách ngộ Đại Hao đắc vòng Trường Sinh. Bố cục này cũng mang ý nghĩa bản thân sẽ trải qua những việc buồn phiền, khó khăn trắc trở tới từ tình cảm gia đình hoặc tính cách có phần ương ngạnh của bản thân. Đắc vòng Thái Tuế là dấu hiệu dễ thành công và biến động lớn trong sự nghiệp. Thái Tuế khi thai sinh trong năm Nhâm Thân, nếu mệnh an tại Thân cung tức đắc vòng Thái Tuế. Mệnh cách đắc vòng Thái Tuế chỉ trừ cách Lộc Tuế đảo là cách cục hung họa, phàm bố cục khác có tính chất mang ý nghĩa có năng lực, phẩm chất quan điểm của bản thân rất rõ ràng, dễ gặp Phượng Khốc thành nhóm Tứ Linh. Tại mệnh cách cư Thân ngộ Tuế Đại Hỏa Sinh hội Kình Linh. Tại đây nhóm Tuế Hổ Phù không gặp Phượng Khốc chiết giảm tính chất tốt đẹp rất nhiều, do cách Phượng Khốc hình thành sẽ hóa tính chất của Kình Dương thành Quyền bởi cách Kình Phượng táo bạo, được chúng tôn. Trong nội cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, rất kỵ gặp Hỏa Linh xâm phá, lại gặp thêm Kình Dương không được chế hóa, ba sát tinh Kình Dương, Hỏa Tinh và Linh Tinh khiến cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương phá cách. Cơ Lương và Đồng Âm hội chiếu về Thân cung, ngoại cách gặp Cự Nhật cư Dần là cách cục khá mạnh. Một cách cục có Kình Hỏa với Cự Môn xung thành cách “Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử cách”. Tức do bất mãn từ bên ngoài mang lại, từ thị phi bên ngoài xã hội khiến trong nội tâm nam mệnh phản kháng, hành động bộc phát, cách cục trở nên rối loạn. Đây là cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương thuộc nhóm sao Văn cách, bố cục có tính bình hòa, ổn trọng, thụ hưởng vui vẻ rất mạnh. Trong trường hợp phá cách trong trường hợp này, cách cục hóa thành tính chất bị động mạnh, trong đó có tính chất chống đỡ với các khó khăn hình thành. May mắn là Thái Tuế tại bản cung Mệnh, tức bản thân mệnh tạo có giá trị, có năng lực và khả năng lập luận, tư duy rất tốt.

     

     

    Tư chất của mệnh cách tốt, tức đây là lá số mang ý nghĩa bất đắc chí trong cuộc đời nhiều hơn việc hưởng thụ được phúc lộc thọ của nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương mang lại. Cũng cách cục này, Cự Nhật xung chiếu tác động rất lớn tới tính cách do mệnh tạo nhập cách Vô Chính Diệu tại Thân cung. Cự Nhật có tính phản đối, can gián, ý nghĩa chủ đứng lên phản đối, bày tỏ quan điểm bản thân. Nhân mệnh xét đoán lá số, tổng quan mệnh tức khí hình gốc của chính đương số. Tức về bản chất, bản tính của bản thân qua tác động của môi trường hoàn cảnh biến là rất phức tạp. Tài cung nhập cách Cơ Lương Khoa Lộc Xương Linh Cái thuộc cách cục có tính chất rất hay, chủ quý cách khi chế hóa cặp Hỏa Linh thành Lộc vượng. Tuy bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương tối kỵ gặp Hỏa Linh giao hội là phá cách rất nặng nề. Đây là khuyết điểm của cách cục khiến nội cách khó khăn trong hình thành các tổ hợp mạnh trong giao vận để hoạch phát lớn. Khoa Lộc hình thành đều không phải mệnh tầm thường. Tạo lá số nhân mệnh, tuy không gặp Phượng Các tạo thành công vang xa, cách cục Tuế Hổ Phù có Khoa Lộc Xương đã là cách cục văn tài xuất chúng. Mệnh Thân đồng cư tại Thân cung, cách cục Mệnh Thân đồng cư xuất hiện tại giờ sinh Tí Ngọ, thuộc khí chính thuần nhất, có khả năng khai sáng mạnh. Hiềm nỗi cách cục VCD có Cự Nhật xung hàm chứa thị phi mạnh, lại gặp Không Kiếp Tử Tuyệt tại vị trí nhị hợp tăng mạnh tính hung. Không Kiếp đồng cư Tị Hợi tác động rất mạnh tới cung độ nhị hợp. Mệnh cách VCD không gặp Tam Không tại nội cách là khuyết điểm lớn. Vô Chính Diệu tại bản cung Mệnh tức bản thân tính cách chịu tác động của các bố cục tinh đẩu tam hợp chiếu và xung chiếu rất lớn. Cách cục VCD tại đây có thành tựu trong cuộc sống tuy nhiên không thể đột phá do ứng hiềm Cơ Nguyệt Đồng Lương phá cách. Trong giai đoạn hiện nay, cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương ở thế rất lợi do hai khuynh hướng Quan Cách và Tài Cách đều gặp khó khăn do nội cách Cơ Lương tuy mạnh bởi hóa khí, có cát hóa nhưng Hỏa Linh tinh diệu thuộc dòng Sát tinh, khí hình hung họa hiển hiện, chủ khiến tâm loạn động, lại Kình Linh có tính chống đối, phối hợp Cự xung dễ dẫn tới xung đột trong tổ chức, nội bộ, cách cục VCD có Cự Nhật dung có tính lãnh đạo không bằng cách bản cung gặp Cự Nhật tại Dần cung. Khai sáng của Cự Nhật là yếu tố lớn khiến cách cục này thành tựu. Cự Môn đinh chủ thị phi, cách cục Cự Nhật được đánh giá hoàn chỉnh hơn bố cục Cự Cơ Đồng do bố cục của Cự Nhật có tính chuyên môn hóa về ngành nghề hoặc về năng lực rất cao. Đây là điểm rất quan trọng của cách cục này. Thái Dương hướng lên, Cự Môn tìm tòi, nghiên cứu tùy giao hội với bàng tinh thành các cách cục mang ý nghĩa khác nhau. Nội cách có Khoa Lộc Xương tăng mạnh tính chất, khả năng học thuật, mô phạm, nghiên cứu.

     

     

    Vô Chính Diệu ưa gặp Triệt đáo Kim cung, thành cách cục mang ý nghĩa triệt để. Trong công việc, giải quyết triệt để các vấn đề là nguyên cớ dẫn tới thành công. Mệnh cách có Âm Dương sáng hợp chiếu, đắc hai vòng Trường Sinh và Thái Tuế tại bản cung Mệnh đồng cung an Thân. Cách cục trên mang ý nghĩa khá hay. Tuy gặp Kình Linh Hỏa khiến nội tâm khó có thể ổn định, dễ tạo nên tính chất bốc đồng, bột phát, tuy nhiên gặp Khoa Lộc Tả Xương mang dấu hiệu của thành công. Hóa Khoa là hóa khí có tính điều hậu mạnh, đặc biệt tại can Tả Phụ hóa Khoa thuộc trung tinh mạnh, khi gặp khó khăn, bế tắc luôn có cách hóa giải. Lộc có thể chế ngự Hỏa Linh. Tuy nhiên cần lưu ý nhóm Cơ Lương rất kỵ Hỏa Linh mang ý nghĩa Hỏa vượng kiệt Mộc, Kim vượng khắc Mộc trong nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương khiến bố cục trở nên loạn động. Trong tinh hệ Tử Sát cư Tị, đồng độ với Không Kiếp thuộc cách cục kỳ cách, ngộ Quyền Tuyệt hội Kỵ Phi Hình Diêu thành cách Tử Sát Hình Kỵ Quyền Không Kiếp trong bối cảnh Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham là cách cục có tính bộc phát, hoạch phát hoạch phá rất lớn. Lấy Thất Sát đồng cung chủ tinh Tử Vi làm tính chất của toàn tinh hệ, dẫn hóa bởi Hình Kỵ Kiếp Không Phi Phục Thanh chủ cách cục có tính táo bạo rất lớn, nhập vận may mắn không gặp Lộc Tồn, tuy nhiên Thất Sát tối kỵ Kỵ Hình dù Tử Sát Hóa Quyền được đánh giá phản tác tinh tường. Cường cung hội hai nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật hoàn chỉnh. Dẫn tới cách cục hai nhóm sao còn lại gồm Phủ Tướng và Tử Vũ Liêm giao hội với Sát Phá Tham. Mệnh cách hội Kình Linh có thể chế dụng Không Kiếp Kỵ Hình khi nhập vận. Vũ Tham đồng độ Kỵ Thanh, Kỵ được cát hóa mạnh bởi Vũ Thanh mang ý nghĩa hay, Kỵ Hình phân thành hai tổ hợp Long Kỵ và Quyền Hình có thể chế hóa khi nhập vận. Với Cự Nhật ngoại cách xung chiếu, khó có thể bản thân làm chủ được cuộc đời, tuy đắc Khoa Lộc Xương Tả lại trong nhóm Văn đoàn, tức bản thân khó có thể đứng đầu một tổ chức lớn, cách cục toàn tinh hệ khá mạnh, cuộc đời thăng trầm biến động mạnh.

     

     

    Hành vận nam mệnh lưu tới đầu tiên là mệnh cung. Mệnh Thân đồng độ, Hỏa Đại Tuế đồng độ Trường Sinh, bản tính khởi sinh Hỏa vượng, đắc Sinh Vượng càng thêm vượng, chủ nhiệt huyết lớn, trong nội tâm tình cảm biến động. Cự Nhật xung chiếu chủ thường có tình duyên phức tạp, do Cự Môn xung dễ dẫn tới chia rẽ. Đại vận nội Cơ Nguyệt Đồng Lương có Hỏa Linh Kình trong gia đạo giai đoạn vận thứ nhất có tính xung đột, tuy gặp Khoa Lộc hóa cách vẫn mang ý nghĩa mâu thuẫn trong nội bộ. Nam mệnh tư chất rất tốt, đây là điểm hay của bố cục khi Mệnh Thân đồng độ. Qua đại vận thứ nhất, nam mệnh lưu tới cung đại vận thứ hai từ 15 tới 24 tại Dậu cung. Cách cục Liêm Phá đồng độ ngộ Đào Hình Binh Mộc, hội cách Tử Sát Không Kiếp Quyền Phi Kỵ thành cách cục mang ý nghĩa loạn động mạnh. Không Kiếp nhập Tị cung, dương hỏa tắc bộc phát, Sát tinh đứng đầu tử vi hội thêm Kỵ Hình, khí hóa Sát cách rất cường vượng, lại thêm Phi Liêm đồng cung, tư tưởng khác thường, phối hợp mệnh cách nội Cơ Nguyệt Đồng Lương, ngoại Cự Nhật phát sinh tính khai phá lớn. Mệnh cách Vô Chính Diệu phù hợp với hành vận Không Kiếp, dù cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh không mấy ưa Kiếp Không, âm ám, ám quyền, đa mưu thì phát, chế dụng được cách Sát Kiếp Kỵ Hình, đại vận này hình thành các tổ hợp rất phức tạp, tác động mạnh tới nam mệnh. Đặc biệt thế đưng Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham là thế đứng phức tạp, hình thành cách cục Vũ Tham, Tử Sát, Liêm Phá xét cách cục Vũ Tham được đánh giá cuộc đời ít thăng trầm, biến động như cách Tử Sát và Vũ Phá do tính chất của Sát Phá có hung tính lớn hơn Tham Lang rất nhiều. Tham Lang là ngôi sao của sự tinh khôn, hợp với Vũ Khúc thành cách nhanh nhạy, thế đứng của Tử Sát ít biến hóa cực đoan hơn tinh hên Tử Phá và Tử Tham. Đại vận Liêm Phá cư Dậu là vận liên quan tới tình ái, khi Phá Quân đồng độ với Liêm Trinh có Mộc Dục và Đào Hoa tại bản cung, vô hình chung khí hình dẫn tới đại vận này gặp phá tán, tức nam mệnh khó có thể chuyên tâm tới sự nghiệp trong vận này do cách cục dẫn về Đào Hoa cách. Đại vận thứ hai này, chủ yếu về tính khám phá, tình cảm, qua đại vận này, nam mệnh lưu tới cường cung Phúc Phối Di mới có thể phát triển lớn hơn. Trong đại vận thứ hai, Phá Quân có thể chế ngự Không Kiếp thành đắc dụng, tuy nhiên với cách cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham trong thế Đào Mộc, lại thêm Kỵ Hình phá vỡ cách cục Phá Không Kiếp, trong vận này nếu không có Thanh Long cứu giải rất lớn hình thành thành cách Thanh Kỵ ắt đã gặp hình thương, tù tội. Qua đại vận thứ hai, cách cục Tài Quan có điểm phá tán, cách cục hóa thành chế dụng Sát cách, về sau đại vận lưu tới cung độ Vũ Tham ắt phát.

     

     

    Đại vận thứ ba khởi từ 25 tới 34 nhập cung độ Phúc Đức cung. Trong tổ hợp Phúc Phối Di, cách cục Cự Nhật tại đây khá hay khi bản cung VCD, đối cung là cách Cơ Lương. Bố cục vô chính diệu xung chiếu Cơ Lương được đăng giá rất cao khi gặp cơ hội may mắn từ bên ngoài mang lại rất lớn. Phúc cung tương ứng khi lai nhập thường mang ý nghĩ về dòng họ, về đời trước tác động lớn tới tư tưởng của bản thân. Phúc và Phối là hai cung độ luôn hướng tới khi bản thân mỗi nhân mệnh trưởng thành. Tuy nhiên tính chất của hai cung độ này khi lưu vận tới không chỉ mang ý nghĩa của chính bản cung, vừa là lưu mệnh, vừa là chính ý nghĩa khi Mệnh cách biến hóa cách cục tới các cung độ này. Cũng như vậy, mệnh cách Cự Môn trong cách Cự Cơ Đồng lưu vận tới Phối cung dễ khó có trọn vẹn. Cần lưu ý, mệnh cách VCD nội cách có Hỏa Linh Khoa Lộc Đại Tuế Kình Xương Hổ. Đặc biệt cát tinh tụ hội tại Tài cung, chứa Cơ Lương Khoa Lộc Xương Tả Tấu Cái Linh Hổ thuộc cách cục mang ý nghĩa cát hóa tài vận rất lớn. Cách cục Cơ Lương đồng cung tại cung Tài tượng thời cơ kinh thương, chủ thiên lộc, có Hóa Lộc tại bản cung là cách hay, cách cục Đồng Âm Kình Dương thiếu một chữ Phượng Các, bằng không đã đạt những thành tựu vượt trội lớn. Bản chất nhân mệnh nội cách Cơ Nguyệt Đồng Lương hội Kình Hỏa Linh dương cương, tuy nhiên bản chất Cơ Nguyệt Đồng Lương âm nhu, cách cục hài hòa nhưng bất ổn trong tư tưởng, Kình Hỏa Linh ưa khai phá, tuy nhiên khi giao hội Cơ Nguyệt Đồng Lương tượng là thất thời. Đại vận thứ ba chính là lấy chữ đắc thời. Do chính các bộ trợ tinh thành cách đầy đủ, Tả Hữu Xương Khúc đầy đủ, Phượng Mã đầy đủ, Cự Nhật trong nội cách mạnh, xung chiếu Cơ Lương đắc cách là hay. Trong đại vận này, thực tế nhân mệnh đắc thời, thời vận tới từ bên ngoài, là vận tốt đẹp khi nhập cung độ La Võng tức Thìn Tuất đắc thế. Mệnh cách VCD cần thiết gặp Tam Không, nếu không ắt giai đoạn ban đầu phát triển khó hanh thông, 10 năm đại vận này là cơ hội tới để thay đổi, tại đây là thay đổi tốt đẹp khi Đà Mã Phượng hình thành, Cự Nhật cư Dần tượng là người đàn ông vươn lên, xây dựng sự nghiệp. Tuy nhiên bố cục này cát tinh lai tấu nhóm Văn đoàn, tính bình hòa, ổn định mạnh hơn tính hoạch phát, bạo phát so với nhóm sao khác. Do bản chất bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương không có tinh đẩu dẫn đầu nhóm, khi hóa khí khó có thể trở nên cực vượng. Trong đại vận thứ ba vẫn là đại vận tốt, nhân mệnh đạt thành tựu trong vận này, tính chuyển động cao, Cự Nhật khởi tạo với Đà La trong cách Xương Đà Linh có tính chất bị động khá lớn do hoàn cảnh, nam mệnh cần lưu ý nắm thế chủ động khi quyết tâm với dự định, kế hoạch.

     

     

    Qua đại vận cung Phúc Đức, lai nhập vận thứ tư, thuộc vận Điền Trạch cung là vận bạo phát lớn của nam mệnh. Thuộc một trong hai vận biến động trong cuộc đời. Đại vận thứ tư khởi từ 35 tới 44. Cách cục bản cung vận thuộc cách VCD kiến Tam Không với bản cung là Tuần Không, Thiên Tướng ngộ Triệt tam hợp chiếu về, Không Kiếp nhập miếu tại Tị cung chiếu về. Bản chất bố cục VCD nội Cơ Nguyệt Đồng Lương, ngoại Cự Nhật không ưa tới hành vận Không Kiếp, do Đồng Lương hội Kiếp Không có tính bất trắc rất cao, cách cục này mang ý nghĩa tăng tính chất bất ngờ tới hành vận, do hội Tam Không cách phù hợp mệnh VCD. Bố cục Phủ Tướng nội vận kỵ hội Không Vong, cách Tướng Triệt chủ lộ không mấy hay. Toàn cách cục nhập vận, cát hung tương bán, hung do Phủ Tướng hội Tam Không kỵ với mệnh cách VCD tượng chủ thời cơ không thuận, bản cung Mệnh VCD nội Cơ Nguyệt Đồng Lương lưu vận tới chủ tình cảm bất hòa. Tuy nhiên điểm tốt đẹp là cách cục VCD kiến Tam Không phú quý khả kỳ hình thành, trong thế đứng của Không Kiếp đối cung, phúc họa từ bên ngoài tác động tới nội cách rất mạnh. Thiên Phủ ngộ Tuần Tồn, Lộc Tướng Ấn thành cách để lại dấu ấn rất mạnh trong hành vận. Cách cục VCD kiến Tam Không thuộc cách cục chủ biến hư thành thực, vô thành hữu, đa tai thành vô kiếp. Bố cục Tam Không thực tế rất ít cách cục có thể thành cách. Trong trường hợp này bản cung Thiên Phủ ngộ Tuần Tồn đánh giá chữ mất nhiều hơn được, khi mệnh cách VCD nội cách không mấy hay, lưu vạn tới bố cục Phủ Tồn Tam Không tăng mạnh tính Vong của Không Vong. Cần cẩn trọng tai họa bất trắc xảy ra với bố cục này, đặc biệt khi tiểu vận lưu tới các cung hội đủ Tam Không tính bất ngờ trong các năm này càng tăng mạnh. Đại vận từ 35 tới 44 vận 10 năm khó có thể luận cát, chủ tính thăng trầm biến loạn rất lớn. Cách cục hình thành xung đột mâu thuẫn, khiến mệnh cạc tư chất khó có thể gặp thời, lại đương đầu với Không Kiếp hội Không Vong có Tồn Kiếp xung chiếu là họa tới bất ngờ. Thiên Phủ nhập vận có Tuần, chủ một vòng tròn, trong nội cách có tính chất cẩn trọng mạnh, tuy không đắc cách nhưng tốt đẹp hơn cách Phủ Triệt rất nhiều. Thiên Phủ ngộ Tuần, tính chủ che chở, mang tính quản lý, gặp Lộc Tồn hóa tài sản, càng tăng trọng thêm khi ngộ Tuần, tuy hiên bất kiến cát trung tinh cát hóa mạnh, nhóm Phủ Tướng lại đơn thủ mang ý nghĩa chủ tình cảm, tính tương trợ hội Không Vong tính cát hóa hung, VCD mệnh cách Cơ Nguyệt Đồng Lương bất dụng bố cục. Do vậy, tuy tối hỉ Tam Không với mệnh VCD, tuy nhiên cần cẩn trọng khi Phủ Tuần Kiếp là trúng họa, cho cất giữ, quản lý, mối quan hệ xã hội bảo trợ, giúp đỡ. Đây là điểm cốt yếu cần rất lưu ý.

     

     

    Qua đại vận thứ tư, nam mệnh nhập vận 45 tới 54.. Cách cục lưu về bố cục tam hợp Mệnh chiếu, gặp cách cục Mệnh Tài Quan cách. Quan Lộc cung thủ vận ngộ Đồng Âm Kình Vượng hội Cơ Lương Xương Khoa Lộc Tả là cách cục chủ nổi danh, Kình Dương tại đây trong cách Kình Tuế kích phát táo bạo của mệnh cách. Đại vận cung Quan Lộc của nam mệnh được đánh giá hay khi Thái Âm đóng tại Tí cung nhập miếu ngộ Thiên Đồng có tính chất vượng tài. Cách cục Đồng Âm Kình Hỏa dễ gặp điểm xấu là thân thể tao thương, tức dễ gặp thương tích trong vận này, tuy nhiên không đáng lo ngại do nhóm Cơ Lương hội Tuế có Quyền Lộc tính chất cứu giải rất mạnh. Đại vận Đồng Âm, cách cục đầy đủ Cơ Nguyệt Đồng Lương cách, chủ ổn định phát triển, không gặp tai ương họa hại, phúc vượng tăng tiến, nếu gặp tai nạn ắt được cứu giải kịp thời. Tuy nhiên cách cục này chứa âm tính mạnh của Thái Âm, khi ngộ Kình Tuế ắt có tính chất xung đột trong tình cảm gia đình, bất đồng trong nội bộ. Kình Dương nhập Tí Ngọ Mão Dậu là bốn vị trí lạc hãm, do cách cục này không gặp Phượng Các chiết giảm nhiều tính chất tốt đẹp, trợ tinh Tả Phụ thiếu Hữu Bật, Văn Xương thiếu Văn Khúc tiểu vận lưu tới Tuất cung đủ bộ ắt có chuyển biến tốt. Các năm Thân, Tí, Thìn lưu tiểu vận về cách cục Cự Nhật Phượng Bật Khúc toàn bộ tổ hợp đầy đủ thành cách, Cự Nhật cư Dần cung khá hay khi Thái Dương sáng. Trung vận Quan Lộc từ 45 tới 54 là thời vận của nam mệnh, dễ đạt được danh tiếng và lộc hậu. Cách cục tuy không quá vượng tuy nhiên có thể trở nên nổi danh lớn, luận cát bất hung, duy điểm duy nhất cần lưu ý khi Kình Hỏa hình thành dễ gặp xung đột trong nội bộ, bệnh tật trong cơ thể, thuộc thể âm thầm. Đây là đại vận tốt đẹp của nam mệnh. Qua đại vận Quan Lộc cung, nam mệnh lưu vận 10 năm tới cung độ then chốt, thuộc Nô Bộc cung với cách cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham. Cách cục trùng phùng Sát Kỵ, Vũ Tham thủ vận có tính linh hoạt có thể hóa hợp Hóa Kỵ, bởi cách Kỵ Thanh đồng độ được luận ” Long ẩn vân” tức chủ cơ biến, mưu trí, tăng mạnh tính nhanh nhạy, quyền biến của Tham Lang. Tử Sát cư Tị cung gặp Hóa Quyền phản tác tinh tường. Tuy nhiên tại đây hình thành một cách cục đặc biệt, Kỵ Hình Đào Kiếp Lưỡng Sát là cách cục rất độc, nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương đặc biệt mệnh Vô Chính Diệu lưu vận tới đây rất đáng lo ngại. Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham đã không mấy hay. Trong trường hợp này cách cục càng trở nên phức tạp. Liêm Phá hình thành tại Dậu cung chiếu về, Không Kiếp hội Đào Hoa thành cách tự gây tai họa cho bản thân, dẫn tới Kỵ Hình tức vi phạm, mệnh cách có Đại Hỏa hội Kình lưu vận tới Kỵ Hình do bộc phát mà mang họa. Điểm may mắn là còn cặp Long Kỵ giải trừ một phần tính chất âm ám của Hóa Kỵ. Tượng cách chủ hung, bất cát, bố cục Tử Vũ Liêm xung đột Sát Phá Tham, khó có thể mong sự ổn định trong đại vận này. Trong hành vận Vũ Tham từ 55 tới 64, tiểu vận tới năm Mão, Mùi nếu lưu tới có phần hung hiểm, đặc biệt khi tác động của Không Kiếp thêm Kiếp Sát đồng cung hội Kỵ Hình. Trong vận này dễ gặp phẫu thuật, mổ xẻ, tức trong cơ thể phát sinh bệnh, nam mệnh cần lưu ý do bản cung Tị cung gặp Tuyệt trong cách Tử Sát Tuyệt địa, khí hóa suy, vận suy, Mệnh Thân tại cung độ Vô Chính Diệu bất hợp vận này. Cách cục Long Kỵ cứu giải lớn, tuy nhiên cần quan phòng hai năm Mão Mùi tránh tai kiếp nặng trong các tiểu vận này. Các năm còn lại bình thường, mang ý nghía chung toàn cục của đại vận không mấy hay.

  • Người phú quý đất Nam Dương, hai mươi tám tướng, không lẽ người nào cũng được cung lục hợp. Quân bị chôn ở đất Tràng Bình, bốn chục vạn người không hẳn người nào cũng bị hạn tam hình”.

    Hai lá số đều bị Lục Sát Tinh xâm phạm nhưng một kẻ thì dụng được Sát Tinh hóa Sát vi Quyền mà có được thiên hạ, kẻ kia tử nạn nơi chiến trường. Bí mật của họa phúc nằm không phải ở số mệnh mà do chính bản thân ta vô tình chọn do hoàn cảnh ngoài thực.

  • Thông tin tài khoản

    Đăng ký thành viên

    Hỗ trợ trực tuyến

    Hỗ trợ trực tuyến
  •              Hộp Thư Đến :       luantuvidonga@gmail.com

  • Thống kê truy cập

    Hôm nay 395

    Hôm qua 273

    Tất cả